Vườn Ê đen mới
NGƯỜI HẦU VIỆC CHÚA CHÂN CHÍNH (Phần 1) – MS Văn Lê

Acts Church in San Diego, California
Chủ đề: NGƯỜI HẦU VIỆC CHÚA CHÂN CHÍNH (Phần 1)
(Dành cho sinh viên Thần học và những người hầu việc Chúa trọn thời gian)
Rev. Văn Lê
Thưa quí vị và các bạn là những sinh viên thần học!
Trước hết cho tôi được gửi đến quý vị và các bạn lời chào thân ái trong tình yêu của Cứu Chúa Jesus. Tôi dâng lên Ba Ngôi Đức Chúa Trời lời tạ ơn; vì Ngài đã chọn lựa và kêu gọi quý vị và các bạn đang chuẩn bị bước vào con đường phục vụ Chúa trọn thời gian. Với thiên chức cao quý này là một ân điển vô cùng quý giá mà Ngài đã ban cho. Tất nhiên, con đường này là một vinh dự và phước hạnh; bởi sự thương xót của Chúa, chứ không phải vì chúng ta xứng đáng. Nhưng không phải dễ dàng, mà đầy dẫy những chông gai và thử thách. Muốn vượt qua những “tường lửa” ấy, chúng ta không thể trông cậy vào sự khôn ngoan riêng của chính mình, và không thể dùng sức lực của con người. Nhưng, phải nhờ sức của Chúa và sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh.
Trong nhiều năm qua, kể từ khi được Chúa kêu gọi vào chức vụ chăn bầy; bản thân tôi có một thắc mắc mà chưa có câu giải đáp nào thỏa đáng: Tại sao người chăn bầy của Đức Chúa Trời ngày nay không được tôn trọng như những thập niên về trước?
Dò theo những kinh nghiệm từ thực tế, lật từng trang sách chậm rãi; trong khi tiếp xúc, quan sát và tìm hiểu những nguyên nhân cốt lõi của vấn đề; cộng thêm sự học hỏi từ những cuốn sách bồi linh, nhật ký, tự truyện của các vị mục sư tiền bối từ những thập niên trước; tôi đã rút ra được một bài học cho bản thân mình. Song song với những kinh nghiệm nói trên, tôi tạ ơn Đức Chúa Trời vì có dịp tiện được đọc, nghiền ngẫm những cuốn sách viết về chức vụ chăn bầy của những vị giáo sư thần học khả kính và đầy ơn; đã được xuất bản trong nhiều thập niên qua.
Từ những điều may mắn đó, tôi đã tích lũy được một số kiến thức nhất định, để có thể tự mình trả lời cho những suy tư và thắc mắc nêu trên. Với chút ít kiến thức và kinh nghiệm nhỏ bé của mình, tôi không có tham vọng gì khác hơn, là ước mong được chia sẻ, trao đổi và cống hiến cùng với quý vị và các bạn để cùng nhau chiến đấu trong trận chiến thuộc linh ở giai đoạn cuối rốt này. Đồng thời, sự khắc khoải của tôi là ước mong thiên chức cao quý của người chăn bầy được trả lại những giá trị cao quý cố hữu của nó như những thập niên về trước. Muốn thực hiện được những hoài bảo tốt đẹp đó, thiết nghĩ chúng ta trở về nền tảng của Lời Chúa…
Kinh thánh: “ Ví bằng có kẻ mong được làm giám mục, ấy là một việc tốt lành, lời đó là phải lắm. Vậy, người giám mục cần phải không chỗ trách được, là chồng chỉ một vợ mà thôi, có tiết độ, có tài trí, xứng đáng, hay tiếp khách và khéo dạy dỗ. Đừng mê rượu, cũng đừng hung bạo, nhưng phải mềm mại hòa nhã; lại đừng ham tiền bạc; phải khéo cai trị nhà riêng mình, giữ con cái mình cho vâng phục và ngay thật trọn vẹn; vì nếu có ai không biết cai trị nhà riêng mình, thì làm sao cai trị được Hội thánh của Đức Chúa Trời? Người mới tin đạo không được làm giám mục, e người tự kiêu mà sa vào án phạt của ma quỷ chăng. Người giám mục lại phải được người ngoại làm chứng tốt cho, kẻo bị sỉ nhục và mắc bẩy ma quỷ.” (I Timôthê 3: 1-7)
Thưa quý vị và các bạn!
Tôi muốn nhấn mạnh vào trọng tâm của vấn đề hôm nay là thiên chức và phẩm hạnh của người chăn bầy; cho nên tôi muốn được nhắc lại một lần nữa về giá trị cao quý của thiên chức ấy.
Quý vị và các bạn là những người đang ôm ấp một hoài bảo tốt đẹp, vì đang chuẩn bị cho mình một hành trình thiêng liêng và cao cả; để bước vào con đường phục sự Chúa. Đây là thiên chức mà quý bạn đã nghe được tiếng kêu gọi của Chúa, thôi thúc ở trong lòng. Nó không phải là một nghề nghiệp để kiếm sống; nhưng là sứ mạng được Chúa giao phó để dấn thân vào sự hầu việc Ngài trong thiên chức chăn bầy. Chính vì ý nghĩa thiêng liêng và cao cả đó, con đường không dễ dàng chút nào; đòi hỏi quý vị và các bạn phải chuẩn bị một tinh thần sẵn sàng để đương đầu với sự bắt bớ, tù đày, có thể bị đánh đập, nhạo báng, vu khống từ quyền lực của thế gian. Sự bắt bớ có thể xảy ra ngay cả bên trong của bốn bức tường của đền thờ từ những con cái Chúa chưa được tái sinh. Bên cạnh đó là những cạm bẫy bủa vây bởi tiền bạc, quyền thế, chức vị, tiếng khen, sự kiêu hãnh… được giăng lưới bởi ma quỷ. Nếu không cẩn thận, chúng ta sẽ bị đánh gục ngay từ trận chiến ban đầu.
Vũ khí mạnh mẽ nhất có thể cự địch lại với thế giới tối tăm, chính là sự quỳ gối thường xuyên để nghe được tiếng Chúa, và sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh hầu có thể hoàn thành những điều Chúa muốn trên đời sống của mình. Chớ xem thường sự dẫn dắt của Ngài, bởi vì thiên thức không thể hoàn thành bằng sức riêng và sự khôn ngoan của con người xác thịt.
Là một con dân của Chúa, được nhiều cơ hội làm khán thính giả, và cũng là một tôi tớ của Đức Chúa Trời đã có một số năm đứng trên bục giảng, tôi chịu khó để tâm học hỏi và rút ra những bài học cho chính mình. Từ thực tế của chức vụ và đối chiếu lại với kiến thức cùng kinh nghiệm của những bậc tiền bối đi trước qua sách vở, cậy ơn Chúa, tôi muốn trình bày lại những gì mình đã rút tỉa được trong chặng đường 42 năm qua; hầu cống hiến cho quý vị và các bạn hôm nay những kinh nghiệm cần thiết.
Lòng ước mong của tôi là cầu xin Chúa ban cho quý bạn được Chúa xức dầu mới trong tiến trình học hỏi, nghiên cứu và lắng nghe tiếng Chúa để hoàn thành trọng trách cao cả xứng đáng với tiếng gọi của Đức Chúa Trời. Người phục vụ Chúa chân chính là người:
1.Không tham lợi phi nghĩa
Kinh thánh Ti-mô-thê thứ nhất, sứ đồ Phao Lô dạy rằng: Đừng mê rượu, cũng đừng hung bạo, nhưng phải mềm mại hòa nhã; lại đừng ham tiền bạc. Với thiên chức chăn bầy, người phục sự Chúa không bao giờ chạy theo tiền bạc. Không lấy tiền bạc làm trọng tâm hay mục đích của sự phục vụ. Tất nhiên, chúng ta cần tiền bạc để trang trải và giải quyết nhiều công việc của Hội Thánh, cũng như sự sinh sống của bản thân và gia đình. Nhưng, tiền bạc không phải là mục đích ưu tiên. Kinh thánh cũng cảnh báo rằng “ Bởi sự tham tiền bạc là cội rễ của mọi điều ác, có kẻ đeo đuổi nó mà bội đạo, chuốc lấy những điều đau đớn (1Ti-mô-thê 6:10). Trước hết phải tìm kiếm Chúa, và Ngài sẽ ban cho những nhu cầu. Chúng ta không thể vừa bước đi với Chúa và vừa bước đi với “ ma môn.”
“ Tôi ngước mắt lên trên núi: Sự tiếp trợ tôi đến từ đâu, “ Sự tiếp trợ tôi đến từ Đức Giê-hô-va,“ Là Đấng đã dựng nên trời và đất” (Thi thiên 121: 1-2)
2. Không thay lòng đổi dạ
Hãy cẩn trọng trong sự hứa nguyện với Đức Chúa Trời. Khi đã hứa nguyện với Chúa điều gì thì phải trả sự hứa nguyện. Khi hứa với các thành viên trong Hội Thánh hay với bất cứ ai điều gì thì chớ quên. Hầu việc Chúa không phải lúc nào cũng “thuận buồm xuôi gió”; nhưng có lúc đầy gian nan: bị người đời nhạo báng, bắt bớ, bỏ tù, bị đánh đập, thậm chí bị tướt đi mạng sống. Còn trong Hội Thánh cũng phải đương đầu với những sự phản bội có thể xảy ra, bởi những con người xác thịt, chưa được tài sinh. Họ sẽ chống đối, coi thường, tìm cách để truất phế hoặc gây xáo trộn làm chia rẽ Hội Thánh. Hậu quả là bầy chiên bị tan lạc bởi “ cỏ lùng chen lẫn trong lúa mì.” Dù phải đối mặt trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào, lòng của chúng ta vẫn không thay đổi với những gì đã cam kết với Chúa.
“Tôi sẽ trả xong cho Đức Giê-hô-va các sự tôi hứa nguyện. Tại trước mặt cả dân sự Ngài.”
Khi sống và cùng làm việc chung với anh em mình, lời nói và hành động của chúng ta phải giữ gìn trước sau như một. Luôn nhớ đến những ơn nghĩa mà quý đầy tớ Chúa hoặc anh em mình đã giúp đỡ trong lúc mình gặp nguy khốn, hoặc khi “đường cùng thế bí.” Bất cứ ai khi mới bước vào chức vụ, cũng cần có những đầy tớ Chúa đi trước dẫn dắt, truyền đạt những kinh nghiệm. Đó là những ân tình mà chúng ta phải có trách nhiệm bày tỏ sự biết ơn bằng hành động, hay lời nói. Đừng bao giờ cư xử theo cách của thế gian “qua cầu rút ván.” Nếu chưa có dịp tiện làm việc đó, thì chúng ta nên noi gương những ân nhân, mà giúp đỡ cho người khác. Đừng ghen tị với những thành công và ơn phước mà Chúa ban cho họ. Khi anh em mình gặp hoạn nạn, thì nên gần gũi giúp đỡ, chia sẻ những buồn đau. Quyết đứng ra bảo vệ, tranh đấu cho lẽ phải. Chớ nên quay lưng lại, bỏ rơi anh em mình đang khi bị hàm oan bởi những kẻ quyền thế. Rồi lợi dụng thời cơ “nước đục thả câu”, tranh thủ chiếm đoạt công việc của anh em mình. Làm điều đó thật không xứng đáng với lương tâm tâm và phẩm hạnh của một người hầu việc Chúa. Đừng để cho bản thân bị người đời nguyền rủa. Ca dao có câu: “Trăm năm bia đá cũng mòn. Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.” Dù hoàn cảnh có đổi thay, con người có bội bạc, nhưng bản thân người phục sự Chúa vẫn một mực trung tín hoàn tất lời hứa nguyện, sống chân thành với mọi người, đeo đuổi cuộc đua. Phao Lô đã từng khuyên dạy Ti-mô-thê như sau:
“ Vì sẽ có một thời kia, người ta không chịu nghe đạo lành; nhưng vì họ nghe những lời êm tai, theo tư dục mà nhóm họp các giáo sư xung quanh mình, bịt tai không nghe lẽ thật mà xây hướng về chuyện huyễn. Nhưng con, phải có tiết độ trong mọi sự, hãy chịu cực khổ, làm việc của người giảng Tin Lành, mọi phận sự về chức vụ con phải làm cho đầy đủ” (2Ti-mô-thê 4: 3-5).
3. Không để tấm lòng bị cám dỗ bởi vật chất, quyền lợi của thế gian.
Người phục sự Chúa không chạy theo vật chất, không tham lam chức vị, quyền thế. Không liên kết với người thế gian để tìm kiếm danh vọng. Không luồn lách, kết bè đảng vời bất cứ ai để tìm chỗ đứng bên trong tổ chức của giáo quyền hay bên ngoài xã hội. Mọi thứ vinh hoa, phú quý của thế gian là những cạm bẫy của sự cám dỗ luôn đeo bám mỗi một chúng ta. Chúng ta phải xem thường chúng và coi mọi sự thuộc về thế gian chỉ là rơm rác. Hãy đặt Chúa ở vị trí cao hết trong đời sống của mình. Kinh Thánh chép:
“Chớ yêu thế gian, cũng đừng yêu các vật ở thế gian nữa; nếu ai yêu thế gian thì sự kính mến Đức Chúa Cha chẳng ở trong người ấy. Vì mọi sự trong thế gian, như sự mê tham của xác thịt, mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo của đời, đều chẳng từ Cha mà đến, nhưng từ thế gian mà ra. Vả thế gian với sự tham dục nó đều qua đi, song ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời (IGiăng 2:15-17).
4. Không dùng những thủ đoạn của chính trị, mánh khóe thương trường, sự khôn khéo của thế gian mà đối xử với anh em mình.
Thế gian và bên ngoài xã hội, con người thường xử dụng thuật đắc nhân tâm, khen nịnh cách không thành thật. Khen không phải để khích lệ hay khâm phục tài năng, đức hạnh của người khác; nhưng vì chủ đích lợi dụng. Là những đầy tớ Chúa, chúng ta không nên sử dụng thủ thuật này. Chúng ta cũng không nên áp dụng ngôn ngữ của chính trị hay thương trường để đối xử với mọi người. Bởi vì những thứ ấy đầy sự gian xảo, phỉnh gạt người khác qua ba tấc lưởi của mồm mép mà thôi. Chúng ta cần những lời nói đem lại sự khích lệ và an ủi anh em mình. Đừng lên án ai cả! Nhưng, hãy cầu nguyện cho mọi người. Lỗi lầm của anh em mình hôm nay biết đâu chính là những điều mà chúng ta đã vấp phạm trong quá khư, cũng có thể sẽ là lỗi lầm của chúng ta vào một ngày nào đó trong tương lai. Lời Chúa dạy:
“Lời nói anh em phải có ân hậu theo luôn, và nêm thêm muối, hầu cho anh em biết nên đối đáp mỗi người là thể nào.” Cầu xin Chúa Thánh Linh dạy chúng ta dùng lời nói khôn ngoan để khích lệ và gây dựng đức tin cho mọi người! Cầu xin Chúa ban cho chúng ta mặc lấy tấm lòng trắc ẩn, cảm thông với những vấp phạm của anh em mình, nắm lấy bàn tay của anh em mình mà cùng nhau quỳ gối kêu xin sự tha thứ của Chúa để cùng nhau đứng dậy, tiếp tục cuộc đua.
5.Không nói hai lời, không xu nịnh bất cứ ai, không cúi đầu trước quyền thế.
Con dân Chúa thường thì bị ảnh hưởng từ đời sống cũng như sự giảng dạy của chúng ta. Có thể nói rằng “mục sư là linh hồn của Hội Thánh.” Nói điều này có vẻ như cường điệu. Tuy nhiên, nó cũng phản ảnh kết quả hoặc hậu quả từ lời giảng và cách sống của đầy tớ Chúa trên đời sống của con dân Ngài trong cùng Hội Thánh. Chính vì vậy, người chăn bầy phải cẩn trọng từ lời nói, trước sau như một. Không vội khen, nhưng cũng đừng vội chê hay xét đoán anh em mình khi chưa trải qua thời gian đủ của sự hiểu biết.
Là người hầu việc Đức Chúa Trời, là tôi tớ của Ngài, là người được Chúa kêu gọi chăn bầy chiên cho Chúa, chúng ta phải là tấm gương để cho con dân Chúa noi theo. Hãy luôn ghi nhớ là cách sống của chúng ta mỗi ngày ảnh hưởng đến con dân Chúa nhiều hơn là những bài giảng. Sứ đồ Phao Lô đã từng nói: “ Hãy bắt chước tôi, cũng như chính mình tôi bắt chước Đấng Christ vậy” (I cô-rinh-tô 11:1).
Sứ đồ Phao Lô khi nói câu này, không phải ông tự mãn hay kiêu ngạo, nhưng ông muốn mọi người hãy sống theo gương mẫu của Đấng Christ. Còn lời nói của mỗi chúng ta trước sau như một. Kính trọng người lớn tuổi hay có chức quyền mà Chúa đang giao phó. Kính trọng khác với thái độ khúm núm hay nịnh bợ. Chúng ta không bao giờ nịnh bợ hay tâng bốc người có quyền thế. Nhưng sẵn sàng giúp đỡ khi có nhu cầu và luôn cầu nguyện cho họ. Một trong những phẩm hạnh cần thiết cho một tôi tớ của Chúa chính là sự lễ độ.
6. Không bán rẻ lương tâm và tình yêu mà Đức Chúa Trời đã đặt trong lòng mình.
Lương tâm là một thứ chúng ta không thể nhìn thấy bằng mắt, nhưng cảm nhận bằng trái tim, và sự thôi thúc của lý trí. Lương tâm là những chuẩn mực của đạo đức, là tiếng nói của Đức Chúa Trời đã đặt sẵn trong tâm hồn mình. Lương tâm là món quà vô giá, là tiếng còi báo thức cho chúng ta trước những lựa chọn đúng, sai. Con người nếu không có lương tâm, hoặc gạt bỏ nó ra khỏi đời sống tâm linh của mình, thì con người sẽ trở nên loài thú dữ. Sống không có lương tâm, thì con người sẽ tàn ác với tất cả mọi sinh vật. Giữa súc vật và con người khác nhau là ở điểm này. Con vật hành động theo bản năng, con người cư xử theo lý trí và lương tâm.
Con người Chúa ban cho đời sống tâm hồn phong phú, lý trí để biết nhận định, và lương tâm để cảm nhận được những gì nên làm, và những gì nên tránh. Lương tâm là tiếng gọi thì thầm trong tâm hồn của con người để nhắc nhở và cáo trách, cũng như lòng thương cảm. Chính sự cao quý cần thiết này, chúng ta không thể xem nhẹ được. Lương tâm cần thiết cho mỗi chúng ta gần giống như hơi thở. Cho nên, lương tâm không phải một món hàng để rao bán và không bao giờ trao đổi lương tâm để lấy một thứ vật chất nào được. Lương tâm của người hầu việc Đức Chúa Trời chính là Lời của Chúa. Đó là tiêu chuẩn, là kim chỉ nam để lương tâm của mỗi chúng ta bước theo.
Còn tình yêu thì sao? Tình yêu ở đây không phải là thứ tình yêu trai gái hay nam nữ, chẳng phải là thứ tình yêu trao đổi theo cách của thế gian là “có qua, có lại.” Chúa Jesus đã dạy chúng ta “phải yêu luôn kẻ thù nghịch và kẻ bắt bớ chúng ta.” Như vậy, tình yêu thương dành cho tất cả mọi người. Nếu người hầu việc Đức Chúa Trời mà thiếu đi phẩm chất này, thì coi như bỏ. Người ấy không hội đủ tư cách để phục sự Chúa. Hai điều quan trọng mà mọi con dân Chúa đều phải thực hành đó là “kính yêu Đức Chúa Trời và yêu người lân cận.” Thơ Cô-rinh-tô thứ nhất, chương 13: 1-8 định nghĩa và giải thích rõ ràng. Quý vị và các bạn nên học thuộc lòng. Tôi chỉ nhắc những câu này (4-8) mà thôi: “ Tình yêu thương hay nhịn nhục, tình yêu thương hay nhân từ, tình yêu thương chẳng ghen tị, chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo, chẳng làm diều trái phép, chẳng kiếm tư lợi, chẳng nóng giận, chẳng nghi ngờ sự dữ, chẳng vui về điều không công bình, nhưng vui trong lẽ thật. Tình yêu thương hay dung thứ mọi sự, tin mọi sự, trông cậy mọi sự, nín chịu mọi sự. Tình yêu thương chẳng hề hư mất bao giờ.”
Là con dân của Chúa nói chung, mỗi chúng ta đều phải “ bước đi trong sự yêu thương”. Là tôi tớ của Đức Chúa Trời, chúng ta phải cùng nhau bước đi mạnh mẽ hơn nhiều, giống như những người lính bước đi trong những cuộc duyệt binh trước mặt Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Cần nhấn mạnh điểm thứ 6 này: Lương tâm không bao giờ đem bán hay trao đổi để lấy bất cứ thứ gì. Còn tình yêu thương trong Chúa thì cứ ban cho một cách rộng rãi.
(Còn tiếp)
San Diego, California ngày 05/ 10/ 2022
Hội Thánh Công Vụ Các Sứ Đồ San Diego, California
Mục sư Văn Lê