Vườn Ê đen mới

LẮNG NGHE THU VỀ – Hồ Galilê


“Em có nghe mùa thu mưa giăng lá đổ
Em có nghe nai vàng hát khúc yêu đương
Và em có nghe khi mùa thu tới
Mang ái ân, mang tình yêu tới
Em có nghe, nghe hồn thu nói mình yêu nhau nhé!”

Lại một mùa thu về!

Bầu trời vén mây, dịu ánh nắng, đất trời như bớt đi cái gay gắt, oi nồng của tháng bảy. Làn gió heo may vừa se lạnh vừa man mác len nhẹ vào hồn. Có gì đó rất lạ, rất riêng, rất sâu…

Tôi chợt lặng người. Bất giác nghe một tiếng thu vọng về tự thẳm sâu tâm hồn. Không phải là tiếng gió, tiếng lá, hay tiếng chim. Cũng không phải tiếng mưa buồn rơi rả rích. Mà là tiếng của ký ức, của năm tháng, của những mùa thu đã đi qua trong cuộc đời.

Ngày ấy… thu về trong sân trường. Lá me bay nhẹ. Tà áo trắng tung bay theo bước chân em. Tôi biết mình đã lớn, đã biết bâng khuâng vì một ánh mắt, một nụ cười. Thu là mối tình học trò đầu tiên – dịu dàng, e ấp như ánh nắng ban mai. Một bài thơ chép vội trong vở học trò, một cành phượng khô ép vào trang sách, một lần nhìn nhau ngượng ngùng mà nhớ mãi…

Năm tháng qua đi. Thu vẫn về mỗi năm, nhưng đời tôi không còn là cậu học trò nữa. Mùa thu năm 1979, tôi lên đường. Màu áo lính hòa vào sắc lá úa, vào nỗi chia xa, vào lời thầm lặng gửi về mẹ, về người con gái đã nắm tay tôi dưới hàng cây thu cũ. Chiến tranh không có mùa, nhưng lòng người vẫn khao khát một mùa thu yên bình. Có người ra đi không trở lại. Có người để lại một phần thanh xuân nơi biên cương. Thu ấy, tôi còn sống, nhưng tôi biết, mình đã mất đi một phần hồn nhiên.

Nhiều năm sau, tôi trở về. Đã qua bao mùa thu. Tôi gặp lại bạn cũ, trường xưa, – mà lòng chẳng còn xốn xang như thuở ban đầu. Chỉ thấy lòng mình lặng đi như mặt hồ cuối thu. Càng sống, tôi càng hiểu: mùa thu không chỉ đến theo vòng quay thời gian, mà còn gõ cửa lòng người – để gọi dậy những điều đã ngủ quên.

Một sáng thu gần đây, tôi bước ra vườn. Hàng cau mẹ trồng đã trổ buồng. Cây bưởi cha chăm nay sai trái. Lũ chim sâu ríu rít. Giọt sương còn đọng trên lá. Tôi nghe rõ tiếng thì thầm của tạo vật. Một khúc ca lặng lẽ mà ấm áp.

Tôi chợt nhớ câu Kinh Thánh trong sách Thi Thiên:
“Hãy yên lặng trước mặt Đức Giê-hô-va và chờ đợi Ngài.” (Thi Thiên 37:7)
Thu dạy tôi điều đó. Sự yên lặng không phải là khoảng trống, mà là không gian cho tâm hồn tìm gặp Đấng tạo hóa. Để thấy mùa nào cũng có điều quý giá, nhưng chỉ trong thu ta mới học được cách… “lắng nghe”.

Lắng nghe tiếng gió thổi qua đời.
Lắng nghe lá rơi trong tim.
Lắng nghe tiếng Chúa dạy ta điều chi giữa những chộn rộn ngoài kia.
Và lắng nghe chính mình – sau bao thăng trầm, còn giữ được gì cho chân thật.

Một đời người, có bao nhiêu mùa thu?
Tôi không đếm. Tôi chỉ biết, mùa thu năm nay, tôi vẫn còn có thể cảm nhận. Vẫn thấy lòng mình rung lên trước một chiếc lá rơi, một khúc nhạc xưa, một câu Kinh Thánh cũ.
Vẫn có thể viết đôi dòng…
Và biết ơn vì được sống.

“Lạy Chúa, cảm ơn Ngài vì mùa thu.
Dù thu đến rồi sẽ đi, nhưng có những điều Ngài gieo vào lòng con – sẽ mãi ở lại…”

Mỗi độ thu về, lòng tôi lại bâng khuâng nhớ đến những buổi chiều bên hiên nhà thờ, nhìn qua khung cửa sổ là ánh vàng nhè nhẹ rơi trên con hẻm nhỏ, nơi từng thấp thoáng bóng dáng cô bé áo vàng năm nào. Ký ức ấy như vẫn còn in trong tâm trí, dù năm tháng đã trôi xa…

Tôi lại thầm ngân nga câu thơ cũ, từng được chép vội gửi em:

“Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường
Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương
Tôi thay mực để vừa màu áo tím”

Rồi em đi. Tôi không còn gặp lại. Như một mùa thu chợt đến, chợt qua, để lại nỗi trống vắng ngọt ngào…

Tôi lớn lên cùng những áng văn trong sáng của Tự lực Văn đoàn, thấm từng dòng “Hai đứa trẻ – Gió đầu mùa”Thạch Lam trong ánh hoàng hôn phố huyện, và ngẩn ngơ bên “Gánh hàng hoa”Khái Hưng và Nhất Linh cùng viết chung,  một thời tuổi trẻ. Tôi đọc “Tôi đi học” của Thanh Tịnh và cảm nhận được sự thay đổi lớn trong lòng mình – như thu đến mang theo cả một bầu trời mới.

Tôi lắng nghe tiếng thu trong thi ca – từ thơ bà Huyện Thanh Quan với “Đèo Ngang” man mác:

“Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”

Đến nét chân quê đầy xao động của Nguyễn Bính:

“Mùa thu hoa cúc lại tàn
Thuyền ai buộc mãi bên làn cây cong
Người về để lạnh phòng không
Thu rơi từng cánh cho lòng nhớ thương”

Tôi đồng cảm với Tương Phố – người đàn bà nhỏ bé trong “Giọt lệ thu”:

“Trời thu ảm đạm một màu
Gió thu hiu hắt thêm rầu lòng em
Trăng thu bóng ngả qua thềm
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng”

Tôi cũng xúc động với Lưu Trọng Lư – người thi sĩ nghe được tiếng thu rạo rực:

“Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?”

Và lòng tôi lặng đi khi đọc những dòng của Đinh Hùng trong “Cảm Thu”:

“Thu năm nay, tôi lại đi trên con đường vắng này
Nghe từng chiếc lá rơi trên bờ cỏ nước trong như một cặp mắt tuyệt vời…”

Có những mùa thu trong chiến tranh. Có những mùa thu trên vành mũ sắt, trong hầm hố lạnh lẽo. Tôi còn sống, nhưng tôi mang trong lòng nỗi đau của những người không trở lại. Tôi từng thì thầm những câu hát của “Ngọn trúc đào” như ru hồn mình:

“Thuyền đành xa bến sang sông
Hàng cây trút lá tình đi lấy chồng”

Để rồi, trong những chiều thu muộn, tôi tìm được an ủi qua lời Thánh Kinh:

“Ngài sẽ cho mưa xuống trên xứ đúng mùa, cả mưa vào mùa thu lẫn mưa vào mùa xuân để anh chị em thu hoạch hoa màu, rượu mới và dầu…”
(Phục-Truyền 11:13-15)

Tôi ngồi một mình bên chiếc Radio Sony 911 cũ kỹ, lắng nghe tiếng hát Thái Thanh hay Sĩ Phú vang lên bản “Mùa thu chết” của Phạm Duy:

“Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa thu đã chết rồi…”

Rồi thả hồn vào Đoàn Chuẩn – Từ Linh:

“Anh mong chờ mùa thu
Dìu thế nhân dần vào chốn thiên thai…”

Và đắm mình trong “Thu hát cho người” của Vũ Đức Sao Biển:

“Dòng sông nào đưa người tình đi biền biệt
Mùa thu nào cho người về thăm bến xưa…”

Đôi lúc, tôi lại ngân nga bài “Hà Nội mùa thu”:

“Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội, nhớ đến một người… Để nhớ mọi người

Đến đây, tôi chợt nghĩ: có phải mùa thu chính là khúc ca trầm lặng của đời sống? Là lời mời gọi ta sống chậm lại, sâu hơn, dịu hơn – và… thánh hơn?

Và có lẽ, chỉ trong mùa thu, tôi mới thực sự cảm được tiếng gọi từ cõi thiêng liêng. Từ nơi sâu kín nhất của linh hồn, tôi nghe lời Chúa vang lên – êm như làn gió thu, bền như ánh sáng sớm:

“Nó chiếm hồn tôi bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”
.(Xuân Diệu)

Và lời kết của Nguyễn Du cứ ngân nga đâu đó:

“Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê…”

Phải chăng mùa thu – là nơi hội tụ của thi ca, âm nhạc, ký ức, đức tin và… tình yêu?

Tôi không còn trẻ, nhưng vẫn mong mỗi độ thu sang, lòng mình không quá già. Vẫn có thể thảng thốt trước một cơn gió nhẹ, xao xuyến vì một cành lá úa rơi, và rưng rưng khi nghe lại tiếng hát quen thuộc năm nào – nơi những nốt nhạc xưa chưa từng phôi phai.

Tôi hiểu rằng: thu không chỉ là một mùa. Mà là một dấu chỉ thiêng liêng – nhắc tôi quay về, nhắc tôi biết lắng nghe, biết nhớ lại, và biết tạ ơn.

“Ngợi khen Đức Giê-hô-va vì Ngài là thiện;
Sự nhân từ của Ngài còn đến đời đời.”
(Thi Thiên 107:1)

Giữa những xoay vần cuộc sống, giữa bộn bề lo toan, mùa thu như một khoảng lặng mà Chúa ban – để tôi biết sống chậm lại. Để lắng nghe tiếng nói trong lòng. Để nhận ra rằng mỗi ngày còn được thở, còn có thể cảm nhận vẻ đẹp dịu dàng quanh mình, là một ơn lành.

Tôi không tiếc những mùa thu đã qua. Vì chính nhờ có chúng, tôi mới hiểu được ý nghĩa sâu xa của mùa thu hiện tại – là một món quà. Và mỗi món quà đều cần được trân trọng bằng sự biết ơn.

Có lẽ, vào một ngày nào đó, khi thu đến mà tôi không còn ở lại, sẽ vẫn có ai đó nhìn lá vàng rơi mà nhớ đến tôi – như một người từng yêu mùa thu, từng viết về nó, và từng thấy trong mỗi cơn gió nhẹ là một lời nhắn nhủ từ trời.

Và nếu được ước một điều trong thu cuối đời mình, tôi sẽ chỉ xin:

“Xin giữ lòng con mềm như lá cỏ
Để nghe mùa rơi trên má rất nhẹ thôi…”

Không biết tôi yêu mùa thu từ khi nào. Có lẽ từ thuở còn bé, cứ mỗi lần nhìn lá vàng rơi rụng là lòng chợt thấy bâng khuâng. Thu đến không chỉ bằng gió heo may, bằng sắc trời se lạnh, mà còn đến bằng cả tiếng nhạc rót vào hồn tôi:

“Mang ái ân mang tình yêu tới
Em có nghe, nghe hồn thu nói: mình yêu nhau nhé?”

Thu không nói bằng lời, thu nói bằng cảm – và ai nhạy cảm thì sẽ “nghe” được mùa thu đang thủ thỉ.

Tôi chợt nhớ đến Đinh Hùng – thi sĩ của những nỗi buồn rất đẹp. Ông khóc vợ bằng thơ, mà mỗi câu đều khiến người đọc chạnh lòng, nhất là khi mùa thu vừa chớm úa:

“Trời cuối thu rồi em ở đâu
Nằm bên đất lạnh chắc em sầu
Thu ơi đánh thức hồn ma dậy
Dắt em vào thăm nấm mộ sâu”.

Thơ buồn quá! Tôi đành tạm dừng Đinh Hùng ở đây, vì nếu nghe thêm chắc tim tôi cũng rưng rức. Tôi rẽ nhẹ sang âm nhạc, tìm chút êm đềm trong “Thu quyến rũ” của Đoàn Chuẩn – Từ Linh để vỗ về trái tim mình:

“Anh mong chờ mùa thu
Dìu thế nhân dần vào chốn Thiên thai
Và cánh chim ngập ngừng không muốn bay
Mùa thu quyến rũ anh rồi”…

Phải nói thật, tôi là người đa đoan. Mùa thu đối với tôi không chỉ có gió, có mưa, có hương cốm hay sắc vàng – mà còn có cả nỗi niềm chồng chất từ thi ca cổ điển. Nhất là Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm. Những khi vợ chồng có điều chi chưa thuận, tôi hay lẩm nhẩm mấy câu này – như một cách cùng nhau gánh sầu:

“Càng trông lại là càng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngát một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”.

Chưa hết đâu, tôi còn thích lục lại truyện Kiều – Đoạn trường Tân Thanh – mỗi khi muốn tìm một sự đồng cảm sâu xa. Có bạn trách tôi viết dài, lan man, tôi chỉ mỉm cười rồi mượn lời cụ Nguyễn Du để đáp:

“Lời quê góp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh”.

Mà cụ Nguyễn Du ấy, đâu chỉ tài tình trong việc kể chuyện đời Kiều. Cụ còn có những câu thơ về mùa thu nghe tưởng mộc mạc mà thấm đẫm triết lý nhân sinh. Một nỗi sầu không tên, lặng lẽ mà da diết:

“Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê”…

Tôi yêu tùy bút, có lẽ bởi sự mềm mại và tự do của nó – như một dòng nước lặng lẽ trôi qua kẽ đá, len vào từng ngóc ngách tâm hồn người đọc. Vì vậy mà năm thứ hai bậc Trung học, tôi đã thuộc làu bài tùy bút Cảm Thu của Đinh Hùng – một áng văn khiến lòng tôi rung lên những nốt nhạc đầu tiên của mùa thu văn chương:

“Thu năm nay, tôi lại đi trên con đường vắng này, nghe từng chiếc lá rơi trên bờ cỏ nước trong như một cặp mắt tuyệt vời. Những cây liễu xanh đứng buồn như những nàng cung nữ thời xưa, và trong vườn nhà ai thấp thoáng, hoa phù dung nở trắng như một linh hồn còn non trẻ. Nắng ở đây vẫn là nắng ngày xưa và linh hồn tôi vẫn là linh hồn tôi năm trước. Tôi vẫn ngờ như không sự thay đổi, vì lại thấy mình đi trên con đường này, thu năm nay, giữa lúc cây vàng rơi lá. Ðường này hiu hắt, tôi đem lòng về để gặp mùa thu thương nhớ cũ, và may cũng thấy thu về để nước hồ xanh. Chân ai đi xa vắng đằng kia, hay đó chỉ là gió thoảng mong manh? Và gió nào vương vấn hồn tôi, hay cũng chỉ là dư thanh của một ngày xưa cũ? Chao ôi! Buồn lại nhiều rồi, nhưng chỉ buồn như năm trước. Lòng tôi chẳng biết tìm ai mà nhớ, hôm nay nhớ lại buồn qua mới thấy nắng kia nhiều dĩ vãng.
Tôi nhớ một người lữ khách nào xưa, ra đi từ một mùa thu… Thế rồi cũng một mùa thu trở lại những bước đầu tiên trên con đường bạn, mắt buồn như nước, mảng tìm hồn mình hiu hắt trong hồn thu mới…
Thu đã về đây, tôi làm lữ khách đi hết sông này, sông khác, cả núi, cả đèo và lại cả rừng, cả suối, bây giờ tôi cũng về đây để buồn thêm một ít, nhớ thêm một ít, và yêu thêm rất nhiều.

…Thôi! Thôi! Tôi không còn trẻ thơ nữa để say sưa đuổi bắt bướm đồng, và chẳng ngắm gió sầu mây, chỉ hoa lòng nở cũng nhiều bông trắng!

Thương nhớ vì sao! Tôi sớm giã từ hồn niên thiếu, hôm nay đi giữa cánh đồng lại thấy tuổi nhỏ của mình tản mạn trên từng cánh bướm, sắc hoa, và chân bước đi những bước ngậm ngùi, bởi chưng lòng tưởng con đường tan tác cánh hương của đóa xuân hồng thuở cũ”.

Tôi không rõ lúc ấy mình yêu mùa thu, hay yêu văn chương – hay cả hai cùng lúc? Nhưng chính từ những dòng chữ như thế, tôi bắt đầu biết lắng nghe. Lắng nghe tiếng thu trong lá rơi, trong làn gió nhẹ, trong hoa phù dung run rẩy giữa buổi sớm mai… và lắng nghe cả tiếng nói mơ hồ của trái tim mình

Thu là thế! Mỗi lần ghé qua đời người là để nhắc rằng: thời gian không đứng lại, lòng người không nên hững hờ, và tình yêu – nếu có – thì hãy giữ lấy bằng cả hai tay.

Thu đến rồi thu đi, như một cuộc viếng thăm lặng lẽ của đất trời. Không ồn ào, không phô trương, chỉ đủ để gợi chút bâng khuâng trong những ai còn biết cảm, biết rung. Trong những chiều gió nhẹ, tôi thường để mặc lòng mình trôi theo mùi hương cốm, theo tiếng lá khô xào xạc dưới chân, theo vài áng mây mỏng lững lờ trôi trên nền trời xám nhạt… Những khi ấy, tôi thấy mình thật nhỏ bé giữa dòng chảy của thời gian.

Tôi đã đi qua bao mùa thu – từ thu của thời áo trắng học trò, đến thu của những ngày xa xứ, rồi thu của tuổi xế bóng – và mỗi mùa thu đi qua đời tôi đều để lại một dấu lặng. Một bài hát. Một câu thơ. Một ánh mắt. Một lời chưa kịp nói. Một nỗi nhớ không thể gọi tên.

Có khi tôi tự hỏi: Phải chăng mùa thu là mùa của lòng người? Bởi chỉ khi trời trở gió, khi cây trút lá, khi không gian se lạnh, người ta mới chịu lắng nghe tiếng lòng mình – tiếng của ký ức, tiếng của lương tri, tiếng của đức tin âm ỉ đâu đó trong tim.

Có ai đó từng viết: “Mùa thu là bản giao hưởng dang dở của Thiên đàng.” Tôi tin điều ấy. Bởi trong khoảnh khắc giao mùa, tôi vẫn thường nghe một giọng nói dịu dàng trong tâm khảm – như một lời thì thầm rất khẽ:
“Hãy yên lặng và nhận biết Ta là Đức Chúa Trời”.(Thi Thiên 46:10)

Lắng nghe thu về – cũng là lắng nghe chính mình. Nhìn lại. Nhớ lại. Và đôi khi… tha thứ cho chính mình.

Rồi mai đây, thu lại sẽ sang. Nhưng liệu tôi còn ở đó không, để lại một lần nữa ngước nhìn mây trời mà ngâm nga một lời thơ cũ?
Hay là, tôi sẽ chỉ còn là một chiếc lá khô, âm thầm rơi xuống lòng đất – như bao mùa thu trước?

Dù thế nào… thì hôm nay, trong giờ phút này – tôi đang lắng nghe thu về. Và tôi biết: lòng mình vẫn còn nguyên một khoảng trống cho những điều dịu dàng.

Hồ Galilê – Thu 2025

Ngày đăng: 10/23/2025